Giỏ hàng: 0
X

Giỏ hàng của bạn

Ý nghĩa của các loài hoa Phần 2

Săc Màu Hoa Nhớ
Trong văn chương, âm nhạc có nhiều mỹ từ về bông hoa cây cảnh mà mãi lúc lớn lên chúng ta mới nhận thức được, tuổi thơ là khu vườn xung quanh nhà có trồng hoa có cây ăn trái, có nắng trải thềm nhà, có mưa bong bóng phập phồng. Hoa toả hương, phô sắc làm đẹp cho cuộc đời, gần cạnh, xung quanh ta, xuất hiện trong hoài niệm, trong cuộc sống mà không bao giờ réo gọi. Cây bông gòn, cây sầu đông, cây lucuma, cây hồng quân, dây thanh long, hàng rào trà với dây tơ hồng quấn quít, đám hoa mười giờ, bông trang, bông lồng đèn, dâm bụt, dạ lý hương, ti gôn…
Hoài niệm hàng cây điệp, phượng vỉ nỡ đỏ mùa hè ve kêu, thu của những tháng ngày xe lạnh gần Tết, rồi Xuân đến khi hoa Mai vàng lá và những vườn hoa cúc, vạn thọ, mồng gà…bắt đầu nở hoa, năm nào cũng vậy khoảng rằm tháng chạp là  phải lặt lá mai cho Mai nở kịp Tết, kỹ niêm xưa nhớ mấy cho vừa…
Bài sưu khảo này ghi nhớ lại loài hoa nằm trong ký ức, thường được nhắc nhở nhưng không rỏ   “dung nhan”, “tính tình” mang tên họ gì. Nào là chuyện hoa sim, hai sắc hoa ti gôn , hoa pensée, chuyện giàn thiên lý, hoa soan bên thềm củ, hoa hoè hoa sói, kim đồng, ngọc nữ, forget-me-not, bông gòn, tơ hồng, hoa mơ hoa mận nở … Tiện thể, thỉnh thoảng dừng chân trên bước đường xuôi ngược để cùng chiêm ngưỡng các loài hoa gần gủi chúng ta- một chút ân tình đong đầy bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của một thời hoa mộng-luôn tiện ngắm nhìn một số kỳ hoa dị thảo.
Nguời viết cũng xin ghi nhận, một số hình ảnh và dử kiện được tham khảo hoặc trích từ  “từ điển Wikipedia commons, Wikipedia” và một số thông tin từ Bloggers ở Việt Nam cũng như một số bài hát về hoa từ youtube. Tính chất dược thảo lợi ích của một số loài hoa trong bài chỉ là thông tin tổng quát, muốn áp dụng xin bạn đọc hảy điều tra và tham khảo với chuyên gia.

       Tơ hồng ( Úc)             Mồng Gà           Dây thanh long         Tơ hồng miền Tây
Dây tơ hồng, tên khoa học Cuscuta, không phải là hoa, là một chi của khoảng 100-145 loài thực vật sống ký sinh có màu vàng, da cam hay đỏ (ít khi thấy loài có màu xanh lục). Trước đây người ta coi nó như là chi duy nhất của họ tơ hồng (Cuscutaceae), nhưng các nghiên cứu sau này cho biết Tơ hồng phải đặt chính xác vào họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Thường được tìm thấy khắp ở vùng nhiệt đới và cũng có vài loài sống ở vùng ôn đới. Ở Miền Nam vùng sông rạch miền Tây, thường thấy mọc dại trên những hàng rào trà, hay mọc ven sông.
Mồng gà thường thấy vào dịp Tết ở miền Nam, tên khoa học là Celosia Cristata thuổc họ Amaranthaceae, trồng như loại cây thực phẩm (lá và hoa) ở Ấn độ, Nam Mỹ và miền tây Phi Châu.
Thanh Long là trái của vài loài xương rồng, quan trọng nhất là loài trái ngọt (sweet Pitayas) tên khoa học là Hylecereus Undatus (vỏ đỏ, thịt trắng) được trồng nhiều nơi ở Đông Nam Á, và đặt biệt trồng xuất cảng ở Việt Nam.
Hoa nắng.
Một mỹ từ văn chương nói đến nhửng loài hoa khoe sắc thấm vào mùa hè ngày có ve kêu, đêm có đom đóm bay quanh vườn, điển hình là hoa phượng, hoa điệp- hoa nắng- len lén chui qua giàn bầu, bí, giàn mướp, giàn hoa ti gôn, giàn bông giấy xen qua cây lá trong vườn để lại những vết nắng đủ hình trạng lấm tấm trên tường vôi hay trên thềm nhà.


Tên khoa học Delonix regia thuộc họ Caesalpiniaceae. Cây thân mộc mềm, đường kính thân cây 60-80cm,tán lá rậm hình dù cành nằm ngang dể bị sâu đục rổng có thể cao hơn 10m nhưng sống không quá 50, 60 năm. Lá kép lông chim hai lần. Tuy lá nhiều nhưng tầng trên không che khuất nắng của tầng dưới nên tàng cây mát dịu và trong sáng. Hoa màu đỏ, cam, mộc thành chùm, mỗi đóa hoa có 5 cánh – 4 cánh xòe và một cánh mọc chỉ thiên. Hoa nở rộ từ tháng 4 đến tháng 6 ở Việt Nam
Cây dễ trồng, thích ứng với nhiều đới khí hậu nên người ta trồng Phượng Vĩ ở nhiều nơi để làm cảnh và lấy bóng mát.

Điệp là tiếng gọi trong Nam cho một loại Phượng có tên khoa học là Poinciana Pulcherrima cùng họ với Phượng Vĩ nhưng khác vì thân lùn, hoa màu đỏ hoặc vàng. Trái Điệp dẹp dài 10-15cm, tách bên trong có hột mềm ăn được, có vị ngọt.

Hoa Phượng tím gốc Nam Mỹ là một loài cây thân gỗ, lá kép hai lần, hoa màu tím, tên khoa học là Jacaranda Acutifolia thuộc họ Bignoniaceae, có tên khác là J.mimosifolia, hay J.ovalifolia. Gọi là Phượng, nhưng Phượng Tím (họ Bignoniaceae) và Phượng Vĩ đỏ (họ Caesalpiniaceae) là hai họ khác nhau. !
Tùy theo môi trường sống, Phượng tím có thể cao từ 3 đến 10 mét, đường kính tán lá có thể đến 10m. Mổi cành lá dài từ 40 đến 50 cm, có lông tơ và mọc thành từng chùm. Thời gian từ khi hoa ươm nụ đến khi tàn rụng thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Các chùm hoa ở đầu cành lại tiếp tục nở ra một đợt hoa mới. Vì vậy mà Phượng tím có hoa nở thường xuyên trong vòng 2-3 tháng. Ở Úc, thời gian hoa nở từ tháng 11 đến giữa tháng 2.  Phượng Tím được trồng nhiếu nơi trến thế giới làm cây cảnh trong vườn nhà, ven đường hay trong công viên. Ở Đà Lạt có trồng nhiều Phượng tím.
Hoa Bông Giấy Bougainvilleas

Bông Giấy-Bougainvilleas- là loại cây trang trí rất thông dụng vùng có khí hậu ấm khắp nơi trên thế giới như Ethiopia, Nam Dương, Phi, Thái, Hồi, Ấn Độ, Đài Loan, Việt Nam, Mã Lai, Úc, Hy Lạp,Tây Ban Nha, Thổ, Singapore, vùng Địa Trung Hải, Trung Mỹ, Kuwait, United Arab Emirates, nam Hoa Kỳ, Hawaii, vùng Lucarno ở Thụy Sĩ nổi tiếng về bông giấy ở Châu Âu.
Những loại bông giấy thường thấy hiện nay là kết quả của lai giống 3 loại trong số 18 loại giống từ Nam Mỹ. Hiện có đến 300 loại khác nhau trên toàn thế giới do lai giống (hybrid)  và đột biến (mutation) ,
Mức độ phát triển của bông giấy nhanh hay chậm tùy loại giống, có nơi trổ hoa cả năm như vùng nhiệt đới gần xích đạo, có nơi trổ theo mùa. Bông giấy cần ánh nắng, khí hậu không ẫm ướt, đất tốt. Hoa trổ từ 4 đến 6 tuần là tàn. Càng có phân bón hoa càng đep rực rở, không cần phải tưới nước nhiều. Tưới nước nhiếu cây không ra hoa và trút nhiều lá, có khi chết vì rể bị thối rửa. Bông giấy trồng dể dàng bằng cách chiếc cắt khúc đầu nhánh và gâm xuống đất với chút phân bón.
Hoa Xuân
Cũng là một mỹ từ văn chương nói đến những loài hoa thường thấy trong dịp Xuân về Tết đến mà điển hình phải kể đến hoa Mai trong Nam, hoa Đào (Anh đào) ngoài Bắc, hoa Cúc và Vạn thọ.
Hoa Đào


Trước tiên cần phân biệt loại hoa Anh đào ở Việt Nam và hoa Anh đào của Nhât (Sakura) và loại Đào ăn trái có nguồn gốc ở Trung quốc thuộc giống Prunus Persica,  loại Anh đào là loại được chọn lựa và lai giống thường chì cho hoa đẹp rực rở (flowering cherry) Prunus Jamasakura hoặc cho trái vị chua (Prunus Cerasus) . Loại Đào ra hoa có dạng thân nhỏ, như bình đựng hoa, phần duới gốc nhỏ, phần trên cành xoè ra, cò thể mọc cao đến 7-8 m, Anh đào thích hợp khí hậu lạnh. Anh đào ở cao nguyên miền Bắc Việt Nam hay ở  Đà lạt không phải giống đào China cho trái để ăn, tiếng khoa học là giống Prunus Persica, mà là chủng loại hoa Anh đào Nhật .
Giống Anh đào trồng trong vườn thường là loại đào lùn 2 to 4 m thường được gép trên gốc cây lùn, chỉ trồng cho ra hoa đẹp để trang trí  chứ không ăn trái.  Loại hoa đào nở vào dịp Tết ở miền Bắc trong dịp Tết Việt Nam- tháng giêng đến tháng ba
Tiện đây chúng ta nên biết tuy cùng chung họ Rosaceae, cùng chi Prunus Đào (Peach) , Mận (Plum) và Mơ (Apricot) là những giống hoàn toàn khác nhau, tuy phân biệt các loài hoa cần sự chú ý và hiểu biết đặc biệt.  Gần đây ở Bắc Việt Nam có trồng loại đào Tàu ở vùng Mẩu Sơn, thuộc huyện Lôc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Hoa Anh đào ở Việt Nam nở vào mùa xuân biểu tượng cho sự may mắn, hạnh phúc, tình bạn khắng khít, thân thiết trường tồn.
Ý Nghĩa : May Mắn, Hạnh Phúc
Hoa Mai

Hoa Mai vàng đua nở vào dịp Tết, nhà nào củng ráng chưng mai, biễu tượng cho sự may mắn, giàu thì cả cây, nghèo thì một nhánh. Mai khắp mọi nơi cũng như hoa Đào ở Bắc rất đẹp, cũng có loài Mai rừng (như trong bài hát Mùa Xuân Trên Cao của Trầm Tử Thiêng) , mọc hoang dại ở ven rừng vùng nhiệt đới. Ngày nay có nhiều loại mai nhiều hơn năm cánh do sự tiến triển của thực vật học và sinh học, nhưng phần lớn chưa có  tên khoa học.
Hao Mai vàng có tên khoa học là Ochna integerrima thuộc gia đình Ochnaceae, có ít nhất khoảng 50 loài hoa Mai vàng khắp nơi trên thế giới. Ngoài Mai vàng ra còn có giống hoa Mai trắng-bạch mai, tuy nhiên giống Mai này khác hẳn với giống Mai vàng và không cùng chung một họ, Mai trắng có tên khoa học là Prunus mume sieb họ Rosacea.  Hoa Mai trắng thường có 5 cánh thường thấy ở miền Trung hoa mới nở có màu đỏ hồng, sau chuyển sang màu trắng, thoảng mùi hương. Mai trắng thuộc dạng loại cây mơ (apricot) không ăn trái chỉ cho hoa đẹp mà thôi.
Nhìn chung, ở Việt Nam người ta chỉ xác định được tên khoa học của vài loài Mai là Ochna integerrima (Mai vàng năm cánh); Ochna integerrima (Mai núi) và Ochna atropurpurea (mai tứ quý). Riêng về Mai tứ quý, ngoài tên khoa học Ochna atropurpurea, chúng còn những tên khác là Ochna atropurpurea DC, Ochna serrulata hay Ochna integerrima.
Hoa Mai có màu vàng tượng trưng cho sự sang trọng, quý phái nhưng lại mang vẻ đẹp dịu dàng, đáng yêu, gần gũi với đời thường. Ai cũng có thể trồng Mai và thưởng thức Mai. Nguời miền Nam cứ sau rằm tháng Chạp (tháng 12 lịch ta) là người ta lặt mai hy vọng Mai trổ vàng rực rở sáng mồng một Tết.  Người xưa quan niệm: ” Mai nở vào ngày Tết sẽ đem lại sự may mắn cho gia đình vào năm tới.”Người ta thường đem cả cây Mai vào nhà để đón xuân. Vừa uống trà vừa ngắm hoa là điều vô cùng thú vị. Hoa Mai trước đây thường gắn liền với các nhà nho. Nó được đưa vào bộ tứ mộc cao quý:”Tùng,Cúc,Trúc,Mai”.
Ý nghĩa: Xuân ước mơ hy vọng may mắn hạnh phúc, tình yêu trung thành.

Mai  tứ quý

Là một loại hoa Mai vàng nhưng sau khi rụng cánh hoa còn lại đài hoa đỏ và hạt xanh (khi chín hột chuyển thành màu đen), chính vì vậy loài Mai này còn có tên là “Nhị độ mai” tức “Mai nở hai lần”.
Hoa Mai Chiếu Thủy

Mai chiếu thủy được trồng làm kiểng, trong chậu nhờ dáng cây đẹp. Hoa màu trắng, có năm cánh có hương thơm. Mai chiếu thủy có tên khoa học là Wrightia religiosa (Teijsm. et Binn.) Hook.f., thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).Hoa có thể ra quanh năm, nhiều nhất về mùa khô, nếu nắng hạn thì cây trụi lá nhưng khi mưa thì lại trẩy lộc non. Có thể chăm sóc uốn nắn Mai chiếu thủy để hoa mọc theo ý muốn.
Hoa Cát Tường (Lisianthus)

Hoa cát tường Eustoma (Lisianthus) có tên khoa học Eustoma grandiflorum (Raf.) Shinnthuộc họ  Gentianaceae , được tìm thấy ở khu vực có khí hậu ấm àp ở miền Nam Hoa kỳ, Mexico, Caribbean và khu vực phía bắc của South America. Chúng thuộc loại cây sống một năm thân thảo, cao 15 – 60 cm, với lá xanh biếc, mảnh dẻ, mọng nước, có hoa lớn, hình phễu, dáng hoa thanh lịch, đẹp như hoa hồng mà còn có bộ lá xinh xắn, đa dạng về màu sắc và chủng loại có nguồn gốc từ miền tây nước Mỹ, có khả năng chịu lạnh tốt, nhiều chủng loại được du nhập vào Đà Lạt với màu sắc đa dạng như: trắng viền tím, tím đậm, kem, vàng, hồng, hồng phai., Cát tường không rực rỡ như hoa cúc và không lộng lẫy như hoa hồng nhưng lại thu hút khách bởi vẻ đẹp đơn sơ, e ấp.
Ý Nghĩa: May Mắn
 
Hoa Cúc-Hướng Dương

Bộ hoa Cúc hoặc bộ Hướng Dương danh pháp khoa học  Asterales là một bộ thực vật có hoa trong họ Cúc Asteraceae .
Bộ này phân bổ rộng khắp thế giới và chủ yếu là các loài cây thân thảo, mặc dù có một lượng nhỏ là cây thân gỗ (chi Lobelia) và cây bụi.
Bộ Asterales bao gồm khoảng 11 họ, 1649 chi gồm khoảng 26.480 loài, trong đó các họ lớn nhất là họ Asteraceae với khoảng 23.600 loài và họ Hoa chuôngvới khoảng 2.380 loài, các họ còn lại có tổng cộng không quá 500 loài. Hai họ lớn nhất có phân bố rộng khắp thế giới với trung tâm nằm ở Bắc bán cầu, còn những họ nhỏ hơn thông thường phân bố ở Úc và các vùng xung quanh, hoặc đôi khi ở Nam Mỹ.
Cúc có khoảng 13.000 loài, là một họ lớn của thực vật học trong đó nhóm Gia cúc có khoảng 100 loại được dùng phổ biến; nhóm Dược cúc dùng làm thuốc với hai vị thường dùng nhất là Bạch cúc (Cúc trắng) và Kim cúc (Cúc vàng). Tên khoa học Cúc trắng: Chrysanthemum sinense Sabine. Cúc vàng: Chrysanthemum Indicum Lour . Nhiều loại Cúc được dùng trong dược phẩm, loại Cúc trắng Chamomile có mùi hương của trái cây được biến chế thành một loại trà Cúc (trà Chamomile).
Ý Nghĩa : Cúc vàng –Lòng kính yêu quý mến, hân hoan; Hướng Dương : Bạn là hy vọng và niềm tin
Quốc Hoa : Cúc trắng Chamomile là quốc hoa của Nga

Chi Mận mơ hay chi Anh đào danh pháp khoa học  Prunus là một chi của một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ  và cây bụi, bao gồm mận (plum), anh đào (cherry), đào (peach) ,mơ (apricot) và hạnh (almond). Thuộc họ hoa Hồng Rosaceae, phân họ Prunoideae (hay Amygdaloideae), nhưng đôi khi được đặt thành một họ riêng của chính nó là Prunaceae (hay Amygdalaceae). Chi Prunus tìm thấy trồng nhiều vùng ôn đới của Bắc bán cầu, Úc, Tân Tây Lan. Điều nên biết là hoa Anh đào chỉ một giống cây trổng cho hoa đẹp trang trí, tên khoa học là Prunus mume. Đây là loại hoa Anh Đào Nhật (Cherry blossom) và hoa anh đào ở Đà Lạt và ngoài Bắc.
Anh Đào (Cherry, tiếng Pháp Cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae) ở Việt Nam, chua lúc xanh, vị ngọt lúc chin đỏ.

Hoa Sơ Ri                                                                               Trái Sơ Ri
Quốc Hoa:  Hoa Anh Đào (Cherry blossom) là quốc hoa của Nhật
Ý nghĩa: Hạnh phúc, tâm hồn thanh cao, tình bạn thân thiết trường tồn

Cylamen còn gọi là hoa Anh Thảo – một loài hoa dài ngày, thích hợp ở xứ lạnh và đất có độ pH 6. 2 – 6. 5. Đây là loại hoa cao cấp sử dụng cho mục đích trưng chậu. Thân cây thẳng đứng và khỏe, cao 30 – 36cm khi trưởng thành. Trồng hoa Anh Thảo bằng củ. Anh Thảo cần được gieo và trồng trong nhà kính, trong điều kiện hoàn toàn kiểm soát được ánh sáng nhiệt độ và ẩm.
Cyclamen –Anh Thảo có  khoảng 23 giống thuộc họ Myrsinaceae, có nguồn gốc Âu châu, Địa Trung Hải, Ba Tư (Iran) và một giống ở Somalia. Củ của giống Cyclamen persicum có chất độc Alkaloids gây khó tiêu, tiêu chảy, ói mửa nếu ăn phải.
Quốc hoa: Ý (Italy), San Marino. Do Thái (Israel), Cyprus
Ý Nghĩa: Sự cam chịu, chia ly

Bằng lăng,danh pháp khoa học Lagerstroemia speciosa là một loài thực vật thuộc chi Tử Vi (Lagerstroemia – một tông chi lớn thảo mộc nước) thuộc họ Lythraceae. Tên tiếng Anh thông dụng là: Giant Crape-myrtle, Queen ‘s Crape-myrtle, Banabá Plant for Philippines, Pride of India, Queen ‘s flower.
Banabá (Bằng lăng nước) là tên gọi theo tiếng Tagalog (dân tộc lớn nhất ở Philippines) của loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh, mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục, mềm. Quả già có đường kính 1. 5 đến 2 cm, khô trên cây.
Loài bằng lăng cho bóng mát và cho hoa đẹp nên được trồng làm hoa cảnh. Thật ra ngoài hoa tím còn có màu đậm, lợt trắng, hồng, đỏ … và cuối thu nhiều giống cũng rụng lá vàng, lá đỏ như cây phong xứ lạnh. Vài giống lùn, lùm bụi, cũng được chọn làm cây kiểng, mùa hoa nở đầy chậu. Cây gỗ lớn cao đến 20m, phân cành cao, thẳng, tán dày, lá hình bầu dục hay hình giáo dài, cụm hoa hình tháp ở ngọn các cành, mọc thẳng, nụ hoa hình cầu, hoa lớn có 6 cánh, có móng ngắn, răng reo màu tím hồng. Cây mọc mạnh, cây trồng chủ yếu bằng hạt, ươm gieo.
Ở Việt Nam cây này được gọi là Bằng lăng nước, mọc nhiều nhất ở các rừng vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là rừng cây gỗ toàn là bằng lăng gần thị xã Gia Nghĩa,  tỉnh Đắk Nông. Ở Cố đô Huế  dọc một số đường trong thành phố Lê Lợi, Đống Đa, Lê Hồng Phong hay trong công viên cạnh dòng sông Hương, hè về bằng lăng thay cho phượng tím, thỉnh thoảng đâu đây tà áo tím mang lại cho Huế  một vẻ buồn man mát, trầm lắng, suy tư.
Ý Nghĩa: Chung thủy, tình đầu ngây thơ cùa tuổi học trò, e ấp kín đáo

Muồng Hoàng yến còn có tên là Bò cạp vàng,  Bò cạp nước , Muồng hoàng hậu, Mai dây, Cây xuân muộn, Mai nở muộn, tên khoa học Cassia fistula L, họ Đậu(Fabaceae). Loài muồng này có nguồn gốc từ miền nam châu Á, từ miền nam Pakistankéo dài về phía đông qua nẤn Độ tới Đông Nam Á và về phía nam tới Sri Lanka.
Loại Muồng Hoàng yến  lớn, nở rộ và sai, rực rở, dạng cành hoa rủ xuống dài 20–40 cm; cuống chung nhẵn, dài 15–35 cm hoặc có thể hơn. Cánh hình bầu dục mặt ngoài phủ lông mượt. Mỗi hoa đường kính 4–7 cm với 5 cánh hoa màu vàng tươi có hình bầu dục rộng, gần bằng nhau có móng ngắn; nhị 10, bao phấn phủ lông tơ ngắn. Bầu và vòi nhụy phủ lông tơ mượt. Quả dạng quả đậuhình trụ, hơi có đốt, dài 20–60 cm hoặc hơn, đường kính quả 15–25 mm, mang nhiều hạt trái xoan rộng, khi khô có vỏ cứng, có thể dùng làm thuốc xổ; thịt quả có mùi hôi khó chịu. Mùa hoa tháng 5-7 (Bắc bán cầu) hay tháng 11 (Nam bán cầu) Bò Cạp nước phát triển tốt nơi có nhiều nắng và thoát nước , không thích hợp với điều kiện khí hậu khô cằn hay giá lạnh; mặc dù nó chịu được hạn và mặn.
Ở Việt Nam, muồng Hoàng yến (có nơi gọi là cây Bọ cạp nước) mọc hoang dại trong các rừng thưaở các tỉnh Tây Nguyên,  cũng còn được trồng như cây cảnh ở đô thị như Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn.
Quốc Hoa: Bò Cạp nước là quốc hoa của Thái Lan


Chi Dâm bụt, hay chi Phù dung (danh pháp khoa học Hibiscus) là một chi lớn chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc ở khu vực ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới. Chi này bao gồm các loại cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi và cây thân gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng từ 4-15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi thùy, được tung ra lúc quả nang tách ra khi chín.
Quốc Hoa :Dâm Bụt Hibiscus Syriacus, còn gọi là Rose Of Sharon là quốc hoa của Đại Hàn (South Korea)  Biểu tượng Trường Cửu (Immortality) và Hibiscus-Rosa Sinesis màu đỏ là quốc hoa của Mả Lai (Malaysia) Biểu tượng Sự sống (Life) và Can đảm (Courage).

Cẩm chướng tên khoa học Dianthus caryophyllus (Clove Pink) là một loài Dianthus thuộc họ CaryophyllaceaeCó thể nguồn gốc Địa Trung Hải nhưng không rỏ vì loài hoa đã được trồng trên 2000 năm nay. Là giống hoang nhưng là ông tổ của các giống Cẩm chướng trồng trong vườn.
Thuộc dạng cây cỏ, sống lâu năm, có thể mọc cao đến 80m, lá xanh xám có phấn, mềm mại dài đến 15cm.  Hoa mọc đơn hoặc chùm, đường kính từ 3-5cm thiên nhiên có màu tím hồng rực rở, những loại hoa lai giống sau có thể có màu đỏ, vàng, xanh lá cây hoặc trắng. Cẩm chướng thích đất khô ráo, không thích đất acid và cần nhiều ánh nắng.  Colombia là sứ sản xuất Cẩm chướng lớn nhất thế giới
Quốc hoa: quốc hoa của Spain, Monaco, South Korea và Slovenia and Czech
Ý nghĩa:  Cự tuyệt, từ chối tình cảm cũng tượng trưng cho tình bè bạn, lòng quí mến, tình yêu trong trắng, thanh cao

Hydrangea
Có khoảng 100  loài giống Cẩm Tú Cầu thuộc họ Hydrangeaceae, có loài rụng lá có giống cây nhỏ, leo và bụi cây xanh quanh năm, tìm thấy ở vùng khí hậu lạnh ở châu Á, một vài loài ở châu Mỹ. Cành Cẩm tú cầu dể gãy, ruột rổng , lá xanh đậm có răng cưa . Hoa nở tuyệt, màu sắc hoa biểu hiện tùy thuộc vào ảnh hưởng của đất trồng, nói  chung đất acid cho màu xanh, đất kiềm Alkaline thì cho hoa đỏ hoặc hồng. Hoa nở mùa hè hay xuân. Các loại cây giống được chia làm 2  nhóm: Hotensias khoảng 500 loài và Lacecaps khoảng 20 loài. Lá Cẩm tú cấu khô có vị ngọt có thể dung làm trà.
Lá và củ cây loài Hydrangea macrophylla có chất Hydragin-cyanogenic glycoside gây tiêu chảy, ói mửa.

Dạ lan hay Lan dạ hương có tên khoa học là Hyacinth orientalis  thuộc họ Asparagaceae, có khỏang 770 đến 1000 loài . Củ Dạ Lan có độc tố Alkaloid gây vọp bẻ, đầy bụng, buồn nôn, tiêu chảy nếu ăn phải.
Lan dạ hương có xuất xứ từ Địa Trung Hải, dáng vẻ tao nhã với những bông hoa hình chuông mọc tiếp nhau, cai này trên cái kia tạo thành 1 hình tháp duyên dáng trên những cuốn hoa thanh thoát. Một nhóm các bông hoa dễ thương này, có gần như đầy đủ màu của 7 sắc cầu vồng, là một biểu tượng huy hoàng và rực rỡ.  Hyacinthus orientalis (Common Hyacinth, Garden Hyacinth or Dutch Hyacinth), là một loài than thảo cho hoa nhiều năm, nguồn gốc Tây Nam Á Châu, Thổ Nhỉ Kỳ, Trung Đông. Dạ Lan còn gọi là Lan Dạ Hương cây thân thảo sống lâu năm được phát triển từ củ (bulb) thân hành sống lâu năm, đường kính khoảng 3-7cm, bao gồm một số loại cây trồng phổ biến trong vườn như Lan dạ hương (chi Hyacinthus), chuông tím (chi Hyacinthoides) và hành biển (chi Scilla).
Hoa Dạ lý hương

Tên khoa học là cestrum noeturnum murray thuộc họ cà (solanaeeae), gốc miền Tây Ấn Độ
Cây hoa dạ hương tức là cây hoa thơm về đêm. hoa có dạng bụi. Cành lá tuy mềm mại nhưng thô thiển. Hoa vàng nhạt. Thường được trồng ở góc vườn, góc sân, lá đơn, mọc cách, màu xanhnhạt, nhẵn bóng, gốc thuôn dài có cuống ngắn. Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở đầu cành hay nách lá. Hoa màu vànglục nhạt, hay lục nhạt, thơm ngát về đêm. Cánh tràng hợp thành ống dài, trên loe thành phễu chia thành năm thùy trái xoan nhọn. Quả mọngmàu lam hay đen nhạt, hạt dẹt. Cây rất dễ trồng bằng giâm cành, mọc khỏe đâm ra nhiều chốivà mùa hoa gần như quanh năm.
Cây hoa dạ hương rất dễ trồng chịu được mọi điều kiện bất thuận, cho hoa về mùa hè, toả hương thơm về đêm.
Ý nghĩa: Vui sướng nhận được tình bạn

Petunia là chi có khỏang 35 giống thân cỏ cho hoa có nguồn gốc Nam Mỹ, có liên hệ gần với thuốc lá và cà tô mát (tomato), khoai tây vì cùng thuộc họ Solanceae.
Dã yên thảo là cây thân cỏ, thường được trồng trong chậu để trang trí cho các khu vườn và là cây hàng năm. Phần lớn Dã Yến thảo chúng ta trồng ngày nay là Dã Yến thảo đã được lai giống từ Petunia Aillaris, P. Violacea và P. Inflata. Dã Yến thảo được chia thành 2 kiểu cây:
– Dã  Yến thảo kép: cây thân leo, hoa lớn với nhiều cánh (grandiflora), đường kính của hoa có thể lên tới 13 cm.
– Dã Yến thảo đơn: cây bụi, có rất nhiều hoa nhưng hoa chỉ có một lớp cánh (mulitflora), đường kính của hoa khoảng 5 – 7.5 cm, dễ trồng và ít bị ảnh hưởng bởi sâu bọ.
Hoa Dã Yến thảo gốc có hình phễu, nhưng các loại Dã Yến thảo lai tạo có hình dáng đa dạng và phong phú hơn nhiều. Cánh có thể đơn lớp hoặc đa lớp, dạng gợn sóng. Hoa có thể có sọc, đốm hoặc viền quanh cánh với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ tía, màu hoa cà, màu oải hương, hồng, đỏ, trắng, vàng. Khi chạm vào lá và cuống hoa thấy hơi dính và có mùi thơm rất khác biệt.

Chi Dành dành danh phá khoa học Gardenia là một chi của khoảng 250 loài thực vật có hoa  trong họ Thiên thảo (Rubiaceae), có nguồn gốc ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Phi, miền nam châu Á và Úc.
Chúng là các loại cây xanh dạng bụi có loài thân gỗ nhỏ cao từ 1–15 m. Lá của chúng mọc đối hay thành vòng của 3 đến 4 lá, dài từ 5–50 cm và rộng từ 3–25 cm, có màu lục thẫm và bóng mặt với kết cấu giống như da thuộc. Các hoa mọc đơn hay thành cụm nhỏ, có màu trắng hay vàng nhạt, với tràng hoa hình ống có 5-12 cánh hoa đường kính 5–12 cm. Loại cây này ra hoa từ khoảng giữa mùa xuân đến giữa mùa hè và nhiều loài có mùi thơm rất mạnh.
Việc trồng cây dành dành cần có độ ẩm cao để phát triển. Chúng sinh trưởng tốt trên các loại đất chua, không úng nước .
Hoa Diên Vĩ –IRIS, Lay Ơn

Diên Vĩ  tên khoa hoc là Iris thưộc chi Iris  trong khi Lay ơn thuộc chi Gladiolus cùng họ Iradaceae
Iris có khoảng 300 loài, nhưng tên Iris cũng được dùng gọi cho những giống có dạng như  Iris như loài Junos . Diên vĩ được trồng thương mại và rất được ưa chuộng.
Chi Diên Vĩ  hay chi  Lay ơn có cùng họ Iridaceae. Tên gọi Diên vĩ là lấy theo chi Diên vĩ (Iris), còn tên gọi lay ơn (lay dơn) là lấy theo chi Lay ơn (Gladiolus). Nó bao gồm một số loài cây trồng được nhiều người biết đến như Diên vĩ (Iris spp.), nghệ tây (Crocus spp.), sâm đại hành (Eleutherine spp.), rẻ quạt (Belamcanda spp.).
Quốc Hoa : Diên vĩ đen là quốc hoa của Jordan


Để phân biệt Diên Vĩ với Lay Ơn , Diên Vĩ  có 3 cánh hoa mọc hướng lên và 3 hướng xuống, mỗi cuống hoa Diên Vĩ có tứ một đến 6 hoa nở một lúc trong khi hoa Lay ơn có dáng hoa kèn nở đầy, bao trùm hết đến đầu cọng hoa. Cả hai loại hoa đều có nhiều màu sắc , tuy nhiên hoa Lay ơn không có màu xanh da trời (true Blue).
Loài Diên Vĩ trồng bằng củ hoặc khúc rể (Rhizomes.)  Củ ngù vùi trong đất có cấu trúc như củ hành tây, còn khúc rể thường thì sống trong đất nhưng cũng có loài ngủ cuối Hè, đầu Thu.
loại Diên vĩ củ thườg thấy là loại Diên vĩ  Hòa Lan


Ý nghĩa: Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng, lời hứa
Hoa Đào (Peach Blossom)


Cây đào có nguồn gốc từ China, danh pháp khoa học là  Prunus persica thuộc họ Rosaaceae, là một loài cây được trồng thường để lấy quả. Nó là một loài thay lá mổi năm, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá hình mũi mác, dài 7–16 cm và rộng 2–3 cm. Hoa đơn hay kép nở vào đầu mùa xuân, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào(cherry) ,mận(plum) ,mơ(apricot) là các loại trái cây quả hạch (stone fruits). Trái đào có một hạt to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng, cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi thơm nhẹ và lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung.
Phần đông  các giống Đào thích khí hậu lành lạnh, nếu lạnh quá cũng không thích hợp,  nếu quá lạnh -26 to -30c , mầm hoa bị chết và như vậy không cho trái.
Đào cần nắng để nuôi trái trưởng thành, nhiêt độ thời gian này khoảng 20 đến 30C.
Vùng sản xuất đào từ lâu gồm China,Iran, France, Italy, Spain, Greece . More recently, the United States tiểu bang trồng nhiều nhất là California and Georgia , Georgia được biết là tiểu bang Đào, Canada(British Columbia) và Australia (vùng Riverland) cũng là nơì sản xuất đào quan trọng .
Anh Đào (cherry, tiếng Pháp cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae ở Việt Nam)










Đổ Quyên loài thân bụi trổ hoa thuộc chi Rhododendron thuôc họ Ericaceae.  (Azalea là một nhánh cũng thuộc trong họ cây đỗ quyên này).  Đổ quyên trổ hoa vào mùa Xuân, hoa nở kéo dài nhiều tuần. Chịu đựng bóng mát và thích sống gần hoặc dưới cây to.
Cây hoa Đổ Quyên thường lớn chậm, phát triển khá hơn trong đất hơi acid (4.5 đến 5 ph). Không cần phân bón nhiều nhưng cần nước và  một vài loại phải thỉnh thoảng chăm sóc tỉa cành
Đổ Quyên mọc thiên nhiên ở  Á châu, Âu châu, Bắc Mỹ châu. Được trồng nhiều như cây cảnh trang trí ở Úc và vùng  đông nam nước Mỹ.
Tuy nổi tiếng vì đẹp , Đổ Quyên có độc chất cao vì chứa đụng chất andromedotoxins trong lá và cả mật hoa. Chi giống Đổ Quyên, có một thời nổi tiếng xấu vì hoa có chất độc nên nếu cho ai bó hoa để trong bình đựng hoa màu đen có ý là hăm dọa bị giết.
Quốc Hoa : Azealea là quốc hoa của Bỉ (Belgium) và Rhododendrons là quốc hoa của Nepal.


Bombax ceiba cũng giống như các cây khác giống Bombax thường được biết là loại cây bông gòn. Bombax thuộc họ Malvaceae. Cây sống miền nhiệt đới có thân thẳng và lá rụng mùa Đông. Hoa đỏ có 5 cánh hoa trổ vào mùa Xuân trước khi mọc lá mới. Trái có hình dáng quả nang, khi chin chứa sợi trắng như bông. Thân gỗ mềm nhưng có gai để cản trở thú vật đến tấn công.
Cây bông gạo đưọc trồng nhiều ở Mã Lai, Nam Dương, Nam Trung quốc, Hong Kong, Đài  Loan và Ấn Độ. Cây được trồng trong công viên và dọc đường phố vì màu  hoa đỏ đẹp nở rộ khoảng tháng ba, tháng tư. Cây bông gạo khá thông thường ở New Delhi, thủ đô của Ấn Độ nhưng cây không bao giờ cao đền 60m vì đất nửa khô cằn. Những sợi bông bay trong gió vào khoảng đầu tháng năm. Cây Bông gạo được goi là cây anh hùng (hero) ở Hong kong vì bông nở đỏ lúc học sinh chuẩn bị đi thi .
Sử Tàu nói đến Chui To, vua nước Nam Viêt ( Nam Yuet) tặng hoàng đế triều  đại Hán (Han dynasty) cây này khoảng thế kỹ thứ hai trước công nguyên (2nd century BC).

Ceiba là một trong những giống cây thân to thuộc họ Malvaceae, có khoảng 10-20 loài,  tìm thấy trong vùng nhiệt đới gồm cả Mexico , South AmericaThe BahamasBelize and the CaribbeanWest Africa, và Đông Nam Á, một vài loại có thể mọc cao đên từ 70m, thân thẳng đường kính có thể đến 3m, có gai, ít lá, ít cành. Tiêu biểu và thường được trồng là cây Bông Gòn Kapok, tên khoa học là Ceiba pentandra. Cây trưởng thành cho vài trăm seed pods, trong mổi seed pod có  chứa hạt bao phủ bởi lông tơ màu hơi vàng vàng mịn mượt là một hổn hợp trộn lẩn giữa lignin và cellulose

Họ Thu Hải Đường (begoniaceae)
Hải đường trong tiếng Việt không phải là tên gọi để chỉ một loài cây cụ thể. Về mặt phân loại thực vật, nó có thể là các nhóm thực vật sau:
  • Trong tên gọi của chi Hải đường (Malus), bao gồm tây phủ hải đường, thùy ti hải đường.
  • Tên gọi khác của một số loài trong chi Mộc qua (Chaenomeleshọ Hoa hồng (Rosaceae), bao gồm thiếp ngạnh hải đường, mộc qua hải đường, hải đường Nhật Bản.
  • Thiếp ngạnh hải đường (Chaenmoeles lagenariaChaenomeles speciosa): còn gọi là mộc qua vỏ nhăn, mộc qua hoa, thiết cước hải đường.
  • Hải đường Nhật Bản (Chaenomeles japonica).
  • Mộc qua hải đường (Pseudocydonia sinensis, đồng nghĩa: Chaenomeles sinensis): còn gọi là minh trà.
  • Trong tên gọi của các loài thuộc họ Thu hải đường (Begoniaceae), bộ Bầu bí (Cucurbitales), bao gồm tứ quý hải đường
  • Tên gọi khác của chi Hoa vân anh (hay hoa đèn lồng-Fuchsiahọ Anh thảo chiều(Onagraceae): đăng lung hải đường, điếu chung hải đường.
  • chi Tiên khách lai (Cyclamen) của họ Xay (Myrsinaceae) còn gọi là la bặc hải đ?

Gửi tin nhắn cho chúng tôi